Ung thư cổ tử cung
Theo thống kê của Tổ chức Y tế Thế giới năm 2012, mỗi năm trên thế giới có gần 530,000 ca mắc mới ung thư cổ tử cung và số ca tử vong hàng năm là 266,000. Hơn 85% bệnh nhân tập trung ở các nước đang phát triển và có hơn 130,000 ca ung thư cổ tử cung mới ở Trung Quốc mỗi năm. Tỷ lệ mắc ung thư cổ tử cung có liên quan chặt chẽ với nhiễm trùng. Một số lượng lớn các nghiên cứu dịch tễ học phân tử đã phát hiện ra rằng nhiễm trùng dai dẳng với vi rút gây u nhú ở người (HPV) có nguy cơ cao là nguyên nhân chính gây ung thư cổ tử cung và là điều kiện cần thiết. Dưới tác động của một số yếu tố phụ trợ (viêm đường sinh sản) Gây ung thư cổ tử cung và thúc đẩy khối u tiến triển.
Khảo sát dịch tễ học ung thư cổ tử cung nhiễm HPV
HPV là một loại vi rút DNA vòng xoắn kép. Hiện nay, hơn 180 phân nhóm HPV được tìm thấy, khoảng 40 trong số đó là các phân nhóm nhiễm trùng đường sinh sản hậu môn, và 15 loại có thể gây ra các khối u ác tính ở đường sinh sản hậu môn, được gọi là HPV nguy cơ cao.
Nhiễm HPV nguy cơ cao là điều kiện cần thiết của ung thư cổ tử cung, nhưng không phải tất cả những người nhiễm HPV đều sẽ bị ung thư cổ tử cung. Các nghiên cứu dịch tễ học đã chỉ ra rằng tỷ lệ nhiễm HPV nguy cơ cao trong dân số khoảng 15% đến 20%, hơn 50% phụ nữ nhiễm HPV sau lần quan hệ đầu tiên và 80% phụ nữ đã bị nhiễm HPV trong suốt cuộc đời. . Tuy nhiên, hơn 90% phụ nữ có thể được đào thải bởi hệ thống miễn dịch của cơ thể trong vòng 3 năm sau khi nhiễm HPV. Chỉ 10% bệnh nhân có thể bị nhiễm trùng dai dẳng, và <1% bệnh nhân bị nhiễm trùng dai dẳng cuối cùng sẽ phát triển thành ung thư cổ tử cung. Trong số những người bị suy giảm miễn dịch [chủ yếu là những người bị nhiễm vi rút suy giảm miễn dịch ở người (HIV)], nguy cơ ung thư cổ tử cung tăng lên đáng kể, có liên quan đến việc cơ thể không có khả năng loại bỏ HPV. Sự xuất hiện của ung thư cổ tử cung là một quá trình phức tạp gồm nhiều giai đoạn, đòi hỏi ba quá trình: nhiễm virus, tổn thương tiền ung thư và ung thư xâm lấn. Từ khi nhiễm HPV nguy cơ cao đến khi bị ung thư cổ tử cung xâm lấn thường mất hơn 10 năm.
Các biểu hiện lâm sàng của nhiễm HPV không đặc hiệu
Con đường lây nhiễm chính của virus HPV là quan hệ tình dục. HPV lây nhiễm các tế bào đáy qua da và niêm mạc bị tổn thương. Vì virus HPV ở dạng ẩn nên sẽ không xảy ra tình trạng lây nhiễm vi rút trong máu nếu không tiếp xúc với máu và hệ miễn dịch ban đầu nên sẽ không có hiện tượng viêm nhiễm rõ ràng tại phòng khám. Đồng thời, HPV có thể trốn tránh sự thanh thải của hệ thống miễn dịch bằng cách điều chỉnh giảm con đường interferon hoặc làm giảm sự biểu hiện của các thụ thể giống Toll.
Sự nhân lên của virus HPV phụ thuộc vào hệ thống sao chép DNA của vật chủ. Khi các tế bào cơ bản biệt hóa và trưởng thành thành tế bào bề mặt, quá trình nhân lên của virus tăng tốc và các hạt virus được giải phóng khi tế bào trải qua quá trình apoptosis tự nhiên. Quá trình này mất khoảng 3 tuần. Sau khi hệ thống miễn dịch ban đầu và mắc phải phát hiện vi-rút, cơ thể sẽ bắt đầu một loạt phản ứng viêm miễn dịch để loại bỏ vi-rút, nhưng các biểu hiện lâm sàng tổng thể không cụ thể.
Hiện tại, không có phương pháp điều trị đặc hiệu cho trường hợp nhiễm HPV nguy cơ cao tại phòng khám. Điều quan trọng nhất sau khi nhiễm HPV là kiểm tra tế bào cổ tử cung, xem xét lại HPV hàng năm và soi cổ tử cung nếu cần thiết để loại trừ ung thư cổ tử cung và các tổn thương tiền ung thư. Cơ chế của HPV nguy cơ cao gây ung thư cổ tử cung
Quá trình sinh ung thư của HPV nguy cơ cao chủ yếu xảy ra thông qua các oncoprotein E6 và E7 của virus, kết hợp với protein P53 và Rb của người ảnh hưởng đến sự tăng sinh tế bào và điều hòa chu kỳ tế bào, gây ra sự tăng sinh và biến đổi tế bào bất thường, và các oncoprotein E6 và E7 có Sức mạnh tổng hợp nhất định. Nghiên cứu cũng cho thấy E5 oncoprotein cũng đóng một vai trò quan trọng trong việc điều hòa miễn dịch và chất sinh ung thư.
Mối liên quan giữa chất sinh ung thư HPV với các bệnh nhiễm trùng và viêm đường sinh sản khác
Các nghiên cứu đã tìm thấy những thay đổi đáng kể trong các cytokine cục bộ cổ tử cung [chẳng hạn như interferon (IFN), interleukin 10 (IL-10), IL-1, IL6 và yếu tố hoại tử khối u (TNF), v.v.] trong ung thư cổ tử cung và các tổn thương tiền ung thư, cho thấy tình trạng viêm nhiễm cục bộ có vai trò nhất định trong việc xuất hiện ung thư cổ tử cung. Các nghiên cứu đã chỉ ra rằng các oncoprotein E5, E6 và E7 của HPV có thể tạo ra trục cyclooxygenase-prostaglandin (COX-PG). Các nghiên cứu trước đây đã phát hiện ra rằng COX2 đóng vai trò gây tổn thương DNA, ức chế quá trình chết theo chương trình, tạo mạch và phát triển khối u. Các nghiên cứu dịch tễ học đã phát hiện ra rằng những bệnh nhân bị nhiễm trùng đường sinh dục như lậu cầu, chlamydia và herpesvirus loại 2 có nguy cơ mắc ung thư cổ tử cung tăng đáng kể. Cơ chế làm tăng nguy cơ ung thư cổ tử cung ở những bệnh nhân bị nhiễm trùng âm đạo cục bộ và viêm nhiễm cục bộ có thể gây chuyển sản mô tại chỗ. Những biểu mô chuyển sản này có thể làm tăng khả năng nhiễm HPV và tải lượng virus HPV. Phân tích tổng hợp cho thấy nhiễm Chlamydia là một yếu tố hiệp đồng đối với ung thư cổ tử cung. Vì vậy, giảm nhiễm trùng đường sinh dục và kiểm soát viêm tại chỗ cũng có thể là một khía cạnh quan trọng trong việc giảm ung thư cổ tử cung.