George D. Demetri và những người khác từ Dana Fabre / Briegen và Trung tâm Ung thư Bệnh viện Phụ nữ Hoa Kỳ đã báo cáo rằng trong số những bệnh nhân bị liposarcoma, việc sử dụng iriprine trong điều trị tuyến sau đã cải thiện đáng kể lợi thế sống sót so với dacarbazine. Đối với bệnh nhân mắc bệnh u mỡ, điều quan trọng nhất là lựa chọn phương pháp điều trị bằng iribrin, vì loại bệnh lý của bệnh có ảnh hưởng hạn chế đến hiệu quả. (J Clin Oncol. Phiên bản trực tuyến ngày 30 tháng 2017 năm XNUMX)
Một thử nghiệm lâm sàng giai đoạn III trước đây cho thấy rằng irribrin so với dacarbazine trong điều trị bệnh ung thư mỡ hoặc ung thư bạch huyết tiến triển có thể cải thiện đáng kể khả năng sống sót tổng thể (OS), và các phản ứng phụ rất dễ kiểm soát và kiểm soát. Giờ đây, các nhà nghiên cứu đã tiến hành phân tích phân nhóm về tình hình của nhóm iribulin và nhóm dacarbazine, với mục đích làm rõ tính đặc hiệu và an toàn của mô liên quan.
Điều kiện tuyển sinh: tuổi bệnh nhân ≥18 tuổi; ung thư mỡ tiến triển hoặc tiến triển không thể chữa khỏi bằng phẫu thuật hoặc xạ trị; Điểm trạng thái hiệu suất ECOG 2; phác đồ hóa trị liệu trước đó ≥2, bao gồm cả anthracycline. Bệnh nhân được chia ngẫu nhiên thành nhóm erebrin (1.4 mg/m2, d1, 8) hoặc nhóm dacarbazine (850 mg/m2, 1000 mg/m2 hoặc 1200 mg/m2, d1) theo tỷ lệ 1:1. 21 ngày là một chu kỳ. Các điểm cuối của nghiên cứu bao gồm hệ điều hành, khả năng sống sót không tiến triển bệnh (PFS) và độ an toàn.
Kết quả cho thấy hệ điều hành trong phân nhóm liposarcoma đã được cải thiện đáng kể. Hệ điều hành trung bình ở nhóm iribulin và dacarbazine lần lượt là 15.6 tháng và 8.4 tháng (HR = 0.51, KTC 95% 0.35 ~ 0.75; P <001). Trong nhóm iribulin, bệnh nhân mắc bệnh u mỡ ở tất cả các phân nhóm mô học và bệnh nhân ở tất cả các vùng đều đạt được sự cải thiện về hệ điều hành. PFS trung bình của các bệnh nhân trong nhóm dùng erybrin là 2.9 tháng và 1.7 tháng so với nhóm dùng dacarbazine (HR = 0.52, KTC 95% 0.35 ~ 0.78; P = 0.0015). Các sự kiện bất lợi xảy ra tương tự giữa hai nhóm.