Năm 2017, một nghiên cứu đăng trên Tạp chí của Viện Ung thư Quốc gia cho biết, ở những người trẻ tuổi từ 20-50 tuổi, tỷ lệ mắc ung thư trực tràng ngày càng gia tăng. Viện đã sử dụng dữ liệu đăng ký SEER từ Viện Ung thư Quốc gia trong hơn 35 năm. Ngoài ra, các nhà nghiên cứu còn dự đoán đến năm 2030, tỷ lệ mắc ung thư ruột kết và ung thư trực tràng sẽ tăng lần lượt 90% và 124% ở người trưởng thành trong độ tuổi 20-34! Số người trong độ tuổi từ 35 đến 49 sẽ tăng ít hơn, lần lượt là 28% và 46%.
Trong hai thập kỷ qua, mặc dù sự gia tăng béo phì và tiêu thụ thịt có liên quan đến việc tăng nguy cơ phát triển ung thư đại trực tràng, các báo cáo về ung thư ruột kết và trực tràng mới phát triển cho thấy mức giảm trung bình hàng năm khoảng 2.7%. Hút thuốc là một yếu tố khác làm tăng nguy cơ polyp tiền ung thư và ung thư đại trực tràng. Theo Trung tâm Kiểm soát và Phòng ngừa Dịch bệnh, mặc dù tỷ lệ người hút thuốc đã giảm từ 21% năm 2005 xuống còn 17% vào năm 2014, nhưng người ta tin rằng phần lớn việc giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng là do cải thiện sàng lọc và theo dõi nguy cơ của bệnh nhân.
Đối với cá nhân, kiến thức là chìa khóa. Điều quan trọng là phải chú ý đến sức khỏe của bạn. Điều quan trọng là phải hiểu tiền sử gia đình mắc bệnh ung thư trực tràng và các bệnh ung thư khác càng nhiều càng tốt. Ngoài ra, chúng ta phải hạn chế tối đa các yếu tố có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng như béo phì, ăn nhiều thịt đỏ, thực phẩm chế biến sẵn, hút thuốc lá.
Các yếu tố làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng:
■ Chất xơ: Bằng chứng trước đây cho thấy chất xơ có thể làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng, và báo cáo này được bổ sung thêm bằng cách báo cáo rằng 90 gram ngũ cốc nguyên hạt mỗi ngày có thể làm giảm 17% nguy cơ ung thư đại trực tràng.
■ Ngũ cốc nguyên hạt: Lần đầu tiên, nghiên cứu AICR / WCRF liên kết độc lập giữa ngũ cốc nguyên hạt và ung thư đại trực tràng. Việc tiêu thụ ngũ cốc nguyên hạt có thể làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng.
■ Tập thể dục: Tập thể dục có thể làm giảm nguy cơ ung thư ruột kết (nhưng không có bằng chứng nào giúp giảm nguy cơ ung thư trực tràng).
■ Khác: Bằng chứng hạn chế cho thấy cá, thực phẩm chứa vitamin C (cam, dâu tây, rau bina, v.v.), vitamin tổng hợp, canxi và các sản phẩm từ sữa cũng có thể làm giảm nguy cơ ung thư đại trực tràng.
Các yếu tố làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng:
■ Ăn nhiều (> 500g mỗi tuần) thịt đỏ và thịt chế biến sẵn, bao gồm thịt bò, thịt lợn, xúc xích, v.v.: Các nghiên cứu trước đây đã chỉ ra rằng thịt đỏ và thịt chế biến sẵn có liên quan đến nguy cơ ung thư. Năm 2015, Cơ quan Nghiên cứu Ung thư Quốc tế (IARC), cơ quan quản lý ung thư của Tổ chức Y tế Thế giới (WHO), đã phân loại thịt chế biến sẵn là “yếu tố gây ung thư cho con người”. Ngoài ra, các nghiên cứu ở phụ nữ tiền mãn kinh còn chỉ ra rằng ăn nhiều thịt đỏ có thể làm tăng nguy cơ ung thư vú. ■ Uống ≥ 2 loại đồ uống có cồn (30g cồn) mỗi ngày như rượu hoặc bia. ■ Rau/trái cây không chứa tinh bột, thực phẩm chứa sắt heme: Khi ăn vào ít, nguy cơ ung thư đại trực tràng cao. ■ Các yếu tố khác như thừa cân, béo phì và chiều cao cũng có thể làm tăng nguy cơ ung thư đại trực tràng. Nhiều phương pháp ngăn ngừa ung thư đại trực tràng rất quan trọng đối với sức khỏe tổng thể: duy trì cân nặng hợp lý, tập thể dục hợp lý, hạn chế thịt đỏ và thịt chế biến sẵn, tăng cường ăn ngũ cốc nguyên hạt và chất xơ, hạn chế uống rượu tối đa hai ly mỗi ngày và tránh uống rượu. hoặc ngừng hút thuốc. Có thể tránh được ung thư đại trực tràng bằng cách đạt được những điểm trên? Không ai có thể đảm bảo 100%. Tuy nhiên, ít nhất trong quá trình phòng chống ung thư, rõ ràng những “nguyên nhân” khác nhau sẽ dẫn đến những “quả ngọt” khác nhau, bạn đã biết cách lựa chọn.