Tình hình ung thư vú
Khoảng 10-12% bệnh nhân ung thư vú trên thế giới là ở Ấn Độ và gần 50,000/60,000 số bệnh nhân được chẩn đoán mắc bệnh ung thư giai đoạn cuối tại thời điểm chẩn đoán. Các chuyên gia phân tích rằng ở Ấn Độ có khoảng 2 đến 20 bệnh nhân ung thư vú dương tính với HER2 và chưa đến 80% số bệnh nhân được xác nhận được điều trị bằng thuốc kháng HERXNUMX. “Điều này có nghĩa là hơn XNUMX% bệnh nhân không được điều trị đúng mục tiêu và mất đi những cơ hội điều trị tốt nhất.”
According to the data, when receiving targeted therapy based on chemotherapy, the risk of recurrence of HER2-positive ung thư vú patients was reduced by about 40%, the risk of death was reduced by nearly 30%, and the ten-year survival rate was increased by more than 8%. At present, the treatment of breast cancer has entered the era of individualized and precise treatment. However, due to different detection levels and analysis levels, different testing institutions in China will give different test results, which will greatly affect the treatment results of patients.
Nghiên cứu ung thư vú
Theo kết quả của “JAMA Oncology” của Đại học Washington, các chuyên gia Mỹ tin rằng: “Phát hiện của chúng tôi cho thấy kết quả xét nghiệm di truyền có thể khác nhau đáng kể, tùy thuộc vào loại xét nghiệm mà bệnh nhân áp dụng”. Các chuyên gia của Mạng lưới Bác sĩ Ung thư Toàn cầu tin rằng bệnh nhân Cơ quan xét nghiệm di truyền được lựa chọn có thể đảm bảo độ chính xác của kết quả xét nghiệm càng nhiều càng tốt, độ chính xác của phân tích thuốc lâm sàng và tránh sự khác biệt trong kết quả điều trị.
Trong 2007, Hiệp hội Ung thư lâm sàng Hoa Kỳ (ASCO) công bố rằng xét nghiệm gen ung thư vú 21 nên được xem xét đối với những bệnh nhân ung thư vú giai đoạn đầu dương tính với thụ thể estrogen và chưa lan rộng các hạch bạch huyết trong quá trình xây dựng kế hoạch điều trị ung thư vú. Hệ thống Trung tâm Ung thư Quốc gia (NCCN) đã khuyến nghị sử dụng xét nghiệm gen ung thư vú 21 trong hướng dẫn điều trị ung thư vú năm 2008.
Breast cancer 21 gene test refers to the detection of the expression levels of 21 different genes in breast cancer khối u tissues, including 16 breast cancer-related genes and 5 reference genes. This test can provide individualized prediction of treatment effects and 10-year risk of recurrence. prediction. By detecting 21 genes and observing their interactions to determine tumor characteristics, the breast cancer recurrence index and the benefit ratio of chemotherapy can be predicted.
Breast cancer 21 gene test is mainly applicable to newly diagnosed breast cancer patients who are in stage I or II, positive for estrogen receptor, negative for lymph node metastasis, and will be treated with tamoxifen. After menopause, patients with aggressive lymphoma who are positive for lymph nodes and estrogen receptors can also use the 21 gene test to determine the benefit of chemotherapy.
Điều trị ung thư vú chính xác
Ung thư vú không phải là một căn bệnh duy nhất. Nói chung, ung thư vú có thể được chia thành bốn loại: LuminalA, LuminalB, HER2 dương tính và ba âm tính theo các chỉ số khác nhau như ER, PR, HER2 và Ki67. Luminal A và Luminal B là các phân nhóm phân tử phổ biến nhất của ung thư vú, chiếm hơn 60% trong tất cả các loại ung thư vú và có tiên lượng tốt. Tiên lượng cho HER2 dương tính và âm tính ba lần là tương đối kém. Trong số đó, ung thư vú dương tính với HER2 là một loại ung thư vú cực kỳ nguy hiểm và khoảng 20% -30% bệnh nhân ung thư vú là dương tính với HER2. Căn cứ vào kiểu gen của bệnh ung thư vú để tìm ra phương pháp điều trị và thuốc nhắm mục tiêu tương ứng.
Thuốc nhắm mục tiêu cho bệnh ung thư vú
Trastuzumab (Herceptin) được ra mắt vào năm 1998 và có tác dụng tốt đối với nhiều bệnh nhân ung thư vú dương tính với HER2. Kết quả của các thử nghiệm lâm sàng cho thấy liệu pháp bổ trợ trastuzumab có thể làm giảm nguy cơ tái phát một cách hiệu quả và hiệu quả, giúp nhiều bệnh nhân HER2 dương tính với ung thư vú giai đoạn sớm được hưởng lợi trong hơn 10 năm. Lapatinib (Tykerb) Lapatinib là thuốc ức chế tyrosine kinase có thể đảo ngược bằng đường uống, ức chế cả thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì tế bào khối u (EGFR, HER1) và tyrosine phosphate HER2. Hiệu quả tốt hơn đáng kể so với các thuốc chỉ ức chế một trong các mục tiêu. Thuốc này là loại thuốc nhắm mục tiêu phân tử thứ hai được phê duyệt để tiếp thị cho bệnh ung thư vú sau trastuzumab, chủ yếu để điều trị ung thư vú tiến triển. Bevacizumab (tên thương mại Avastin) Một kháng thể đơn dòng tái tổ hợp được nhân bản hóa, ngăn chặn hoạt động sinh học qua trung gian VEGF bằng cách liên kết cạnh tranh với các thụ thể VEGF với yếu tố tăng trưởng nội mô mạch máu (VEGF), do đó ức chế quá trình nguyên phân của tế bào nội mô, làm giảm quá trình tân mạch của khối u và đạt được tác dụng ức chế sự phát triển của khối u. . Đây là loại thuốc đầu tiên được phê duyệt để ức chế sự hình thành mạch khối u. Lenatinib (Neratinib / Noratinib) là thuốc ức chế HER1,2 và 4 bằng đường uống, không thể đảo ngược. Afatinib Afatinib là một loại thuốc phân tử nhỏ dùng đường uống có tác dụng ức chế không hồi phục đối với HER1,2 và 4.